Thứ 2, 01/07/2024, 02:47[GMT+7]

Tư tưởng nhân văn quân sự của Vua Phật Trần Nhân Tông

Thứ 6, 31/05/2024 | 16:01:20
1,224 lượt xem
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) đã chép về Trần Nhân Tông: “Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần…”.

Nơi thờ vua Trần Nhân Tông tại di tích quốc gia đặc biệt khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà).

Nối nghiệp đế vương của họ Trần ở Thái Bình đã dấy lên, Trần Nhân Tông dốc tâm chăm lo vun đắp cho sức mạnh “trên dưới đồng lòng, quân dân một dạ” để cùng vua cha (Thượng hoàng Trần Thánh Tông) triển khai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba đưa dân tộc ta đến ngày toàn thắng vào năm 1288. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Anh Tông và làm Thái thượng hoàng, xuất gia tu hành sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Ông được người đời tôn vinh là Vua Phật.

Trong con người Vua Phật Trần Nhân Tông có ba phẩm chất kết hợp hài hòa với nhau: anh hùng cứu nước, triết nhân và thi sĩ. Về phương diện anh hùng cứu nước có thể coi tố chất “nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân” là tư tưởng nhân văn quân sự xuyên suốt trong sự nghiệp và hành trạng của bậc vua hiền này. Chủ trương “cố kết lòng dân” được triển khai bằng cách ứng xử “nhân từ hòa nhã” đối với kẻ thuộc hạ, với muôn dân và với cả kẻ thù là tư tưởng nhân văn quân sự của triều Trần đã được Trần Nhân Tông phát triển tới đỉnh cao. Sử sách đã ghi chép khá nhiều sự ứng xử công việc triều chính của Trần Nhân Tông mang đậm tố chất “nhân từ hòa nhã” để “cố kết lòng dân”. Xin nêu một vài trường hợp:

1. Vào năm Canh Thìn (1280): “Em Đỗ Khắc Chung là Đỗ Thiện kiện nhau với một người, tình lý đều trái. Người kia đón xa giá để kêu bày. Vua hỏi quan xử kiện. Viên quan đó trả lời: “Án xử đã xong nhưng hình quan thoái thác không chịu chuẩn định đó thôi!”. Vua nói: “Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy!” (Khi đó Đỗ Khắc Chung đang giữ chức quan Chi hậu cục thủ trong triều). Lập tức đang trên đường đi, sai Chánh chưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn định, thì Thiên Thư quả thật là trái”.

Qua sự kiện này đã cho thấy cách ứng xử của Trần Nhân Tông là hoàn toàn không câu nệ vào pháp định mà cốt là để khoan thứ cho dân. Thứ nhất là ở bậc đế vương nhưng Nhân Tông sẵn sàng lắng nghe lời kêu bày của một kẻ bị xử kiện cho là mình bị xử oan. Thứ hai là sẵn lòng vị tha với lỗi lầm của viên quan xử kiện, bởi ông cho nguyên nhân “Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy!” (chứ không phải do ăn hối lộ). Có lẽ, những hiện tượng án oan sai do “sợ mà né tránh” thì ở đời nào cũng có. Thứ ba là vì phải giải quyết ngay vụ việc nên đang trên đường đi Trần Nhân Tông đã cử ngay một hoạn quan để chuẩn định lại.

2. Việc Trần Nhân Tông xử sự với lỗi lầm và trọng dụng Trần Khánh Dư đã được Toàn thư chép khá tường tận. Chuyện là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư nhờ lập được nhiều võ công mà được thăng dần tới tước Tử phục Thượng vị hầu, quyền chức Phán thủ nhưng can tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy. Bấy giờ Hưng Vũ Vương Nghiễn là em trai Trần Quốc Tuấn được lấy công chúa Thiên Thụy, lại có công đánh giặc. Vua sợ phật ý Quốc Tuấn, mới sai người đánh chết Khánh Dư ở hồ Tây, nhưng lại dặn chớ đánh đau quá để không đến nỗi chết. Ít lâu sau, xuống chiếu đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản không để lại chút gì. Khánh Dư lui về ở Chí Linh làm nghề bán than. Nhân một lần Trần Nhân Tông đi tuần thú đỗ thuyền ở bến Bình Than thấy có chiếc thuyền đi qua, nhìn người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn có dung mạo giống Khánh Dư, vua sai thị thần gọi hai lần Khánh Dư mới chịu đến gặp. Vua nói: “Nam nhi mà đến nỗi này là cùng cực rồi!”, bèn xuống chiếu tha tội. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua. Đến năm Nhâm Ngọ (1282), phong cho Khánh Dư làm Phó đô tướng quân và ông đã lập được nhiều công lớn.

3. Vào năm Ất Dậu (1285), quân Nguyên tiến đánh nước ta lần thứ hai đã tiến đóng ở Đông Bộ Đầu, Trần Nhân Tông muốn sai người dò xét địch tình mà chưa tìm được ai. Chi cục thủ Đỗ Khắc Chung (một chức quan nhỏ trong triều) tiến lên tâu rằng: “Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi!”. Vua Trần Nhân Tông mừng rỡ nói: “Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!”. Bèn sai đưa thư giảng hòa. Khi Đỗ Khắc Chung đến trại quân Nguyên thì Ô Mã Nhi nói: “Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ “Sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm!”. Khắc Chung đáp: “Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần tại sao lại không có?”. Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi tiếp tục hăm dọa nhưng Khắc Chung đều ứng đáp trôi chảy. Khi Khắc Chung đi rồi, Ô Mã Nhi nói với thuộc hạ: “Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống, không nịnh ta lên, mà chỉ nói “Chó cắn người lạ”; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được!”.

Từ những chuyện chép về việc Trần Nhân Tông xá tội và đối xử nhân hậu với Trần Khánh Dư để rồi khi có giặc Khánh Dư đã lập nhiều công lớn đến việc Trần Nhân Tông không truy xét việc xử án thiên lệch cho em Đỗ Khắc Chung để khi có giặc, Khắc Chung đã xung phong vào trại giặc mà biện bác “không nhục mệnh vua”, đã chứng tỏ tài dùng người của Trần Nhân Tông. Nguồn cội của tài dùng người đó chính là tư tưởng nhân văn quân sự sâu sắc của một đấng vua hiền.

4. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (năm 1285), khi Trần Hưng Đạo giao tranh với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp đã đánh cho chúng đại bại, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để thuộc hạ đưa về phương Bắc. Nhiều danh tướng bị chết. Vua trông thấy thủ cấp của Toa Đô, thương hại nói: “Người làm tôi phải nên như thế này!”. Rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chôn, nhưng ngầm sai lấy đầu đem tẩm dầu để răn, vì cớ từ 3 năm trước Toa Đô đã mượn cớ đánh Chiêm Thành để vào cướp nước ta.

Khi chép về việc này, sử thần Ngô Sỹ Liên có lời bàn: “Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của bậc đế vương. Nói rõ đại nghĩa để bề tôi muôn đời biết rằng trung với vua, chết vì phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ lớn lắm vậy. Huống chi lại cởi áo ngự, sai người liệm chôn nữa. Làm vậy, có thể khích lệ sĩ khí để trừ giặc mạnh là phải lắm!”.

Dường như, trong lịch sử chưa có vị hoàng đế nào của Việt Nam và của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đã có sự ứng xử giữa trận tiền tương tự như vậy. Có thể coi đó là một hiện tượng độc đáo trong tư tưởng nhân văn quân sự của Trần Nhân Tông.

5. Trần Nhân Tông là người gần dân. Ông chủ trương gần dân để cố kết lòng dân. Trải nghiệm qua chiến tranh, ông càng nhận thức đầy đủ hơn về lòng trung thành của những người dân lao động ở phận tôi tớ (thời Trần gọi là gia nô, gia đồng). “Vua từng ngự chơi ở bên ngoài, giữa đường hễ gặp gia đồng của vương hầu thì tất gọi tên chúng mà hỏi: “Chủ mày ở đâu?”, rồi răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng: “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng có mặt”. Sử gia Ngô Sỹ Liên đã lý giải: “Vì là vua cảm mến bọn chúng đi theo bảo vệ mình hồi phải chạy ra khỏi kinh thành mà nói thế!”.

6. Toàn thư chép: “Ngay sau ngày toàn thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cùng vua Trần Nhân Tông trở về phủ Long Hưng. Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), đem các tướng giặc bị bắt cùng các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (Tam Đường, Hưng Hà)… Trước đó, quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi, nhưng không phạm được tới quan tài. Đến khi giặc thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn. Đó là thần linh ngầm giúp vậy. Khi vua Trần Nhân Tông cử lễ bái yết, có thơ rằng:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,

Non sông nghìn thuở vững âu vàng)”.

Sử cũ còn lưu truyền khá nhiều chuyện về Trần Nhân Tông khoan dung, độ lượng với bề tôi khi họ có lỗi lầm. Ân cần khuyên nhủ khi các bề tôi có mối bất hòa với nhau. Nhờ phẩm chất này mà khi giang sơn gặp vận binh đao thì trên dưới đồng lòng, vua tôi một dạ. Bài học về tư tưởng nhân văn quân sự của Vua Phật - anh hùng cứu nước Trần Nhân Tông đến nay và muôn đời sau vẫn còn nguyên giá trị.

Nguyễn Thanh
(Vũ Quý, Kiến Xương)


Tin cùng chuyên mục

Xem tin theo ngày