Thứ 6, 05/07/2024, 01:52[GMT+7]

Định xuất cung phi

Thứ 2, 09/05/2022 | 08:37:19
2,263 lượt xem
Làng Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy có tên Nôm là làng Góp, dân gian truyền tụng Quang Lang là “làng nguyên chất” của ngư dân ven biển nước ta bởi có nét đặc trưng nghề truyền thống là diêm nghiệp (làm muối) và ngư nghiệp, diêm nghiệp gắn với tục thờ bà chúa Muối. Bà chúa có tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, đệ tam cung phi Trần triều. Diêm nghiệp và ngư nghiệp có cội nguồn hình thành và phát triển gắn chặt với lịch sử của làng cùng các tục lệ kiêng kỵ và những lễ hội làng đặc sắc. Người dân Quang Lang có đời sống tinh thần phong phú, hầu như quanh năm làng có lễ hội, tục thờ bà chúa Muối, đặc biệt lễ hội phồn thực “ông Đùng, bà Đà”, rước “cầu vọng”, rước “nước, reo ống”, “vật trâu ba đình”...

Đền bà chúa Muối, thôn Quang Lang Đông, xã Thụy Hải (Thái Thụy), nơi thờ đệ tam cung phi Trần triều Nguyệt Ảnh.

Theo thần tích “Trần triều đệ tam nương cung phi” do chi “Càn” thuộc dòng tộc Phùng Việt Nam sao lưu, thân mẫu của Đệ tam cung phi Trần triều Nguyệt Ảnh là người họ Phùng. Thần tích ghi: “Tiên thị thời gian tại Nam Định trấn, cổ hiệu Sơn hạ đạo, Thái Bình phủ, Thụy Vân huyện, Quang Lang trang, Hữu nhất gia Công tính Nguyễn Húy Hiền, “Thê” Phùng Thị Mậu, Gia trung bần Phạp, dĩ chử diêm vi nghiệp, Nhi năng miễn ư Hành Thiện, Tiểu Thiện diệc vi, Thôn ác bất tác, Phu Phụ quân thị bỉnh đức, chất Hậu sử kỷ Khoan hòa... Ký nhị Phùng Thị phần Hương Kiết Nguyệt Thôi song trắc ánh bán Huy hoàng. 

Tự thử ý hoài thâm động, thân trung hữu dựng thời Canh Thìn niên, chính Nguyệt thập ngũ nhật, sinh hạ nhất bào phá xuất nhất nữ, diện trang đào kiểm, sắc ánh băng Hồ, nhan sắc Phi Phương, tự dung yểu điệu. Hiền công Đại Hỷ, dĩ hy vạn sự Túc Hỹ, Thâm chung ái chi cố danh viết Nguyệt Ảnh nương”. Đại ý truyền ngôn rằng, ông Nguyễn Hiền và vợ là Phùng Thị Mậu nhà ở Quang Lang trang, vốn rất nghèo, một hôm đang làm việc trên đồng muối thì có vị khách lạ ngang qua, ngắm nhìn huyệt đất lạ, vị khách nói với Nguyễn Hiền, gò đất Nga - My này mà đem mộ tổ về đây táng chắc chắn sẽ sinh ra cung phi. Ông Nguyễn Hiền nghe thầy phán vậy, liền dời mộ tổ về táng ở nơi đây, quả nhiên bà Phùng Thị có thai. Năm Canh Thìn, tháng Giêng, ngày mười rằm, sinh ra một hài nhi nữ, mặt đẹp tựa trăng rằm, môi đỏ, da trắng như tuyết. Lớn lên, bé gái nhan sắc phương phi, tư dung yểu điệu nên ông bà Nguyễn Hiền, Phùng Thị đặt tên con là Nguyệt Ảnh... Nguyệt Ảnh càng lớn càng xinh đẹp, mỗi khi cô ra đồng muối cùng mẹ cha, mây trắng kết trên đầu thành chiếc lọng khổng lồ che kín ruộng muối. 

Không có nắng, nước biển không kết tinh thành muối nên dân làng oán thán. Cha mẹ Nguyệt Ảnh biết chuyện ngày đêm sầu não, thương con phải quanh quẩn trong nhà, chỉ biết giấu trong lòng. Một ngày nọ, cha Nguyệt Ảnh đóng chiếc thuyền để Nguyệt Ảnh mang muối đi bán ở các trấn thành cho khuây khỏa. Rồi một ngày, thuyền muối của Nguyệt Ảnh đến kinh đô Thăng Long, trời đang vàng nắng bỗng đám mây ngũ sắc kéo đến che kín thuyền của Nguyệt Ảnh, thuyền đi đến đâu, lọng mây đi theo đó, đám trẻ đang chơi đùa bên sông thấy lạ liền hát khúc đồng dao: “Ông Trời năm sắc/Che đóa phù dung/Đợi bến Triều Đông/Trần vương biết hay không?”. Khúc hát đồng dao của lũ trẻ cứ lặp đi lặp lại, vang đến tận cung đình. Vua Trần Anh Tông đang thiết triều nghe thấy khúc đồng dao cũng thấy làm lạ, liền sai thị vệ ra ngoài nắm tình hình. Thị vệ thấy cảnh đám mây ngũ sắc lạ lùng che thuyền cho người con gái bán muối, gương mặt đẹp tựa Hằng Nga cùng khúc đồng dao đầy ý nhắn gửi nhà vua mà lũ trẻ đang hát râm ran liền về cung bẩm báo. Nhà vua nói với các đại thần: “Trăn thủ Nga My khuynh quốc sắc/Đào yêu, liễu kiểm đoạt Tiên Dung”, tạm dịch nghĩa: “Nữ nhi này sắc đẹp làm nghiêng nước/Lưng đào, má liễu sánh với Tiên Dung”. 

Vua Trần Anh Tông bèn sai kiệu rồng ra bến sông rước người con gái về cung. Chợt nhìn thấy nhan sắc Nguyệt Ảnh đẹp tựa trăng rằm, tiếng oanh tựa chuông vàng, vua lấy làm ưng ý liền lập làm đệ tam cung phi. Nguyệt Ảnh hầu cận vua Anh Tông trong ngọc ngà, nhung lụa nhưng chốn phồn hoa chẳng làm Nguyệt Ảnh vui. Tiếng oanh vàng như thưa nhạt bởi nỗi lòng khắc khoải nhớ quê, nhớ cánh đồng muối Tam Đồng chiều tà đổ bóng nhuộm vàng khay muối trắng. Bỗng nghe tin thân phụ Nguyệt Ảnh bạo bệnh qua đời, Nguyệt Ảnh xin vua cho về quê chịu tang. Cha mất, tóc mây Nguyệt Ảnh biếng chải, trâm ngọc biếng cài, oanh vàng lặng im, thấy vậy thân mẫu lo lắng, liền cho tiền lũ trẻ mục đồng bày trò cho Nguyệt Ảnh vui. Một chiều, lũ trẻ chăn trâu bày trò “mặt trắng, mặt đỏ” đứa cầm gốc dứa, đứa cầm mo cau chơi trò “tinh, tinh... phập”. Nguyệt Ảnh đang buồn bỗng thấy vui, cười ngất ngây cho đến lúc lịm đi... Hôm ấy là tháng Tư, mùa hạ, ngày mười tư. Hương chức trang Quang Lang thấy vậy liền tức tốc về kinh báo tin dữ cho vua. Vua Trần Anh Tông vô cùng thương xót liền sai bộ Lễ về trang Quang Lang làm lễ an táng, lại sai bộ Công về xây lăng mộ, đền thờ, vua sắc phong “Nhất truy phong Từ ý Thái hòa Đệ tam cung phi Linh ứng Tôn thần”. Vua chiếu chỉ cho làng Quang Lang và họ Nguyễn trong làng hương khói phụng thờ “bà Chúa Muối”, sắc chỉ dân làng và họ Nguyễn về kinh thành rước sắc chỉ lập cung điện, từ đường thờ cúng bà Chúa... Sắc tặng: Trần triều Phật đạo uy quang, Đệ Tam cung phi, Đức Minh Thượng Tín, Quốc Chính Diệu Quang, Trinh thuận mạo trang hành cẩn, Hồng Từ Quang Tuệ, Linh phù Tôn Thần.

Từ đường Nguyễn Hữu ở thôn Quang Lang Đông, nơi phụng thờ tổ nghề cá Quang Lang cũng là dòng họ Nguyễn tiên sinh Đệ Tam cung phi Nguyệt Ảnh, được vua ban sắc chỉ thờ phụng còn đôi câu đối cổ nổi bật giữa từ đường tạm dịch là:

Mở đất khai trang xây nhất miếu
Đóng thuyền, truyền nghiệp dựng tam thôn

Truyền ngôn, thời kỳ loạn 12 sứ quân, ông tổ nghề cá Quang Lang là Nguyễn Hữu Thắng vốn là “con độc” trong gia đình nho giáo trấn Sơn Tây, chẳng may bố mẹ mất sớm, ông thả thuyền trôi theo dòng sông rồi dạt vào vùng đất bên bờ biển này. Đêm ấy trên thuyền, ông nằm mộng chiêm bao, thấy thần linh hiện lên mách bảo dựng nghiệp đất này sẽ “đa đề phúc lộc”. Sáng dậy, ngắm vùng đất bồi trù mật, ông bèn theo lời chỉ dạy của thần linh dựng lều mưu sinh. Vài ngày sau, dân chài ở khắp nơi nườm nượp kéo đến quần tụ cùng ông thành xóm vạn chài. Vốn có chút kinh nghiệm đánh bắt cá thuở còn bên cha theo học nghề ở làng cũ, ông truyền dạy cho mọi người. 

Thiên nhiên ưu đãi, cá tôm có thừa khổ nỗi mọi người trong làng vẫn đói vì không có gạo ăn, ông liền chặt thân cây Báng (tên chữ là Quang Lang) đập dập, lấy bột trong thân cây làm bánh ăn thay cơm gạo. Mọi người học theo ông và cái tên Quang Lang cũng hình thành từ ngày ấy. Thời nhà Lê thế kỷ XV, làng Quang Lang được chia làm 3 thôn (thôn Đông, thôn Đoài và Tam Đồng), trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng Quang Lang vẫn giữ “nguyên chất” một làng quê của biển, tuy vẫn mang hình thái của làng nhưng Quang Lang không có bất cứ hoạt động nào liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Quang Lang đất không rộng nhưng dân số khá đông vì thế diện tích nhà ở cho mỗi hộ dân ở Quang Lang là rất khiêm tốn. Đi trong làng có cảm giác như đang len lỏi trong phố cổ chật hẹp.

Làng Quang Lang có miếu Ba Thôn (di tích lịch sử cấp quốc gia) thờ Nguyễn Quảng Lại một tướng tài triều Đinh đã từng cùng các tướng tài giỏi khác phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất “Tĩnh hải quân” (tên gọi nước ta thời Bắc thuộc) và được phong giữ chức Thủy đạo đại tướng quân. Trong một lần cùng Đinh Bộ Lĩnh truy đuổi tàn quân của Kiều Công Hãn ông đã mất tích, vài ngày sau thi thể ông trôi về cửa biển Diêm Hộ rồi được người dân làng chài trang Quang Lang vớt lên chôn cất và thờ cúng. Theo thần phả, Nguyễn Quảng Lại là con trai duy nhất của gia đình họ Nguyễn tên húy cha là Đạo và thân mẫu Dương Thị Hòa, người trang Thịnh Liệt, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây.


Quang Viện